Con rể vua hùng là ai? Kể tên những người con rể của vua Hùng mới nhất

Con rể vua hùng là ai? Kể tên những người con rể của vua Hùng mới nhất

- in Tổng Hợp
170

Hãy cùng Muôn Màu theo dõi nội dung mới nhất về Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng
dưới đây nhé:

Việt Nam có 18 đời Hùng Vương dựng nước, trong ấy vị vua Hùng thứ 18, triều đại của vua Hùng rốt cục, có 2 người con rể được dân gian ca tụng. Trong bài viết sau đây, xin mời các bạn cùng trường muonmau.vn mày mò Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng.

Mục lục

Thông tin về 18 đời Vua Hùng

Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là biệt hiệu các vị thủ lĩnh vô thượng của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua này là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Dân tộc ta là 1 dân tộc người hùng, 1 dân tộc có xuất xứ gắn liền với lịch sử các vị vua Hùng. Bác Hồ đã có câu:

“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là câu nói đã đi sâu vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam, để nhớ ơn công huân phệ to của họ, hãy cùng Mạng Tin Mới trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc qua các thời đại vua Hùng, để hiểu hơn và kiêu hãnh hơn nữa về dân tộc Việt Nam ta.

Truyền thuyết kể lại rằng vua Hùng từ khi thời xã hội Văn Lang còn đó. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh vô thượng, được biết tới với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương cùng lúc là người lãnh đạo quân sự, chủ trì các nghi lễ tín ngưỡng. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu ô sin. Cả nước phân thành 15 bộ (đơn vị hành chính to) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công tác của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.

Kinh thành của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang không những thế các sử gia nước ta bị tác động của các sử gia Trung Quốc nên mới chép kinh thành nước Văn Lang là Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.

Phương tiện là đồng thau phát triển thành tầm thường và khởi đầu có phương tiện bằng sắt. Có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là tầm thường nhất.

Không những thế còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự cắt cử lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã hiện ra.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho tới hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang còn đó tới năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) kiêm tính. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong “Thế thứ các triều vua Việt Nam” thì 18 vị vua Hùng là:

Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 – 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Húy là Lộc Tục (祿續).

Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 – 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).

Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 – 2253 TCN

Hùng Diệp vương (雄曄王): 2252 – 1913 TCN

Hùng Hi vương (雄犧王): 1912 – 1713 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “ngưu” 牛)

Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 – 1632 TCN

Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 – 1432 TCN

Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 – 1332 TCN

Hùng Định vương (雄定王): 1331 – 1252 TCN

Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 – 1162 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “nhật” 日)

Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 – 1055 TCN

Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 – 969 TCN

Hùng Việt vương (雄越王): 968 – 854 TCN

Hùng Anh vương (雄英王): 853 – 755 TCN

Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 – 661 TCN

Hùng Tạo vương (雄造王): 660 – 569 TCN

Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 – 409 TCN

Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 – 258 TCN

Bên cạnh đó hiện nay, qua khảo chứng, các nhà sử học hầu hết cho rằng chuyện 18 đời Hùng vương là ko có thật. Con số 18 chỉ mang tính biểu trưng.

Nếu xét theo thời kì trị vì kéo dài hơn 2000 năm nhưng mà chỉ có 18 đời vua thì đây là những con số rất khó thuyết phục; mặc dầu biên chép tương tự để “nêu rõ quốc thống” nhưng mà các sử gia đều tỏ ý nghi ngại điều này.

Nhà sử học Ngô Thì Sĩ viết: “Người ta không hề là đá vàng, sao lại vạn thọ được như thế? Điều đấy càng chẳng thể hiểu được” (Việt sử tiêu án).

Còn trong cuốn Việt Nam sử lược, nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết: “…Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là thiên hạ cổ xưa nữa thì cũng khó lòng nhưng mà có nhiều người vạn thọ được tương tự”.

Khác với biên chép của sử sách và truyền thuyết dã sử, các nhà nghiên cứu cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ còn đó trong vòng 300 – 400 năm và niên đại xong xuôi là khoảng năm 208 TCN chứ không hề là năm 258 TCN.

Cuốn Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất của nước ta còn giữ được cho đến nay chép rằng: “Tới đời Trang Vương nhà Chu (696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần phác, chân chất, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.

Ko rõ tác giả Đại Việt sử lược căn cứ vào đâu để viết lên tương tự, nhưng mà đưa ra thời khắc nhưng mà nhà nước Văn Lang tạo nên vào khoảng thế kỷ VII TCN, tương ứng với công đoạn Đông Sơn là thích hợp với những kết quả nghiên cứu ngày nay, và con số 18 vua Hùng thống trị trong vòng 300 – 400 năm được nhiều người chấp thuận hơn, cho dù chẳng thể khẳng định được rằng nước Văn Lang thực thụ có đúng 18 đời vua Hùng.

Kể tên những người con rể của Vua Hùng

Dù rằng theo sử thi có đến 18 đời vua Hùng, nhưng mà mãi cho tới Vua Hùng thứ 18, vị Vua Hùng rốt cục mới có sử lược ghi về những người con rể của vua Hùng.

Theo ấy, Vua Hùng thứ 18 có 2 người con rể được liệt vào danh sách Tứ Bất Tử nhưng mà người Việt Nam tôn thờ, gồm: Sơn Tinh chồng công chúa Ngọc Hoa và Chử Đồng Tử chồng công chúa Tiên Dung.

Con gái tuyệt sắc, con rể xuất chúng

Ngọc phả kể rằng, tới đời Tuyền Vương, lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã tới hồi xong xuôi nên vua ko sinh được đàn ông. Vua và triều thần đi thăm các cung tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, cho dựng các điện miếu, cầu phúc cầu con, sau mộng mị thấy điềm rắn to, sinh được 2 con gái đều dễ nhìn trinh hiền, phong tư trác việt, chị là Mỵ Châu Tiên Dung, nàng em là Mỵ Nương Ngọc Hoa.

Mỵ Nương Ngọc Hoa to lên, thân phụ muốn tìm kẻ hào kiệt người hùng nên truyền hịch cho thiên tài khắp 4 phương tới kinh đua tài, người nào trúng tuyển sẽ làm rể vua. Anh hào kéo tới đông như mây họp, nhưng mà tài năng được mặt này lại mất mặt kia, vua Hùng chưa ưng người nào.

Quá hạn dự thi, có 2 người bạn đồng học có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa tìm tới, ấy là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Họ tâu: “Bọn thần thẹn nỗi kém tài, trộm nghe chúa thượng mở khoa thi kén rể hiền, tuy tới muộn nhưng mà vẫn muốn được thi tài”.

Vị vua Hùng có 2 chàng rể xuất chúng là thánh bất tử của Việt Nam - 2

Cảnh thi tài giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.

Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe tới sông Bạch Hạc cho 2 người trổ tài. Sơn Tinh tới ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong phút giây bỗng thấy mưa mây nổi lên, đáy nước vang tiếng động ầm ầm, giao long, kình ngạc, rùa, cá từng đoàn theo sóng cuồn cuộn tung lên, khiến người nào cũng rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, mồm niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu, nơi đấy hiện lên muôn ngàn kỳ quái, biến hóa khôn lường ngăn nước lũ.

Xem thêm  Tự lập là gì? Sống tự lập có giá trị như thế nào? mới nhất

Vua Hùng thấy 2 người tài phép ngang nhau, ko biết chọn gả công chúa cho người nào, liền giao hứa: “Người nào đem sính nghi tới trước thì trẫm gả cho người đấy”. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hứa nhau: “Bọn ta cùng trở về soạn sửa sính nghi, để xem người nào là người tới trước?”.

Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, tìm chọn lễ phẩm cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính nghi. Khấn xong liền thấy voi trắng 9 ngà cùng các đồ châu ngọc quý lạ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho sắp xếp, vừa đúng giờ Tý (nửa đêm) đã đưa tới trước lầu rồng. Hùng Tuyền Vương bèn gọi công chúa tới báo gả cho Sơn Tinh. Đến nay Mão, Thuỷ Tinh mới tới, ko cưới được công chúa nên từ ấy kết thù, hằng năm dâng lũ, nhưng mà đều bị Sơn Tinh dùng phép thuật ngăn lại, giữ yên trăm họ và mùa màng.

Còn Mỵ Châu Tiên Dung, Ngọc phả Hùng Vương cho biết nàng được gả cho Chử Đồng Tử (người xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam). Nhiều truyện dân gian khác kể cụ thể hơn về mối nhân duyên này: Chử là chàng ngư phủ mồ côi nghèo tới nỗi cái khố độc nhất đã dùng để tẩm liệm cho cha, ngày ngày dầm mình trong nước kiếm cá để bán lấy tiền sinh nhai. 1 hôm công chúa Tiên Dung đi thuyền qua, thấy bãi cát đẹp nên lệnh cho thị nữ quây màn để tắm, ko ngờ chọn đúng nơi Chử Đồng Tử vùi mình để trốn. Nước làm trôi cát, Tiên Dung bàng hoàng thấy hiện lên 1 chàng trai tuấn tú cũng khỏa thân như mình, cho là duyên trời bèn kết làm chồng vợ.

Để tránh cơn giận của vua cha, Tiên Dung cùng chồng ko về cùng nhưng mà ở ngoài giao thương, hình thành 1 vùng sầm uất. Chử Đồng Tử trong 1 lần theo thuyền buôn ra biển, lên 1 hòn đảo gặp được tiên ông bèn ở lại học đạo, mấy năm sau trở về truyền dạy cho vợ. 2 vợ chồng để lại gia bản cho mọi người, cùng nhau vân du, tiếp diễn học đạo thành tiên.

Cả 2 người con rể của Hùng Vương thứ 18 – Sơn Tinh và Chử Đồng Tử, đều là vị thánh được tôn kính hàng đầu trong tôn giáo cổ kính của người Việt. Họ là 2 trong 4 vị thánh bất diệt nhưng mà dân gian gọi là Tứ bất diệt, cộng với Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh. Sơn Tinh chính là Tản Viên Sơn Thánh, tức Đức Thánh Tản, là biểu trưng của nguyện vọng đoạt được thiên nhiên, thắng lợi thiên tai. Đền thờ ông có ở khắp nơi, trong ấy được biết tới nhiều nhất là đền Và ở Sơn Tây, Hà Nội và các ngôi đền trên núi 3 Vì.

Còn Chử Đồng Tử được gọi là Chử Đạo Tổ, người đi đi đầu trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác, là đối tượng biểu trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự khá giả, giàu sang.

Nhường ngôi

Biết cơ đồ họ Hùng đã hết, Hùng Tuyền Vương muốn truyền ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Tinh. Theo Ngọc phả Hùng Vương, khi mà Sơn Tinh chưa quyết, Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Người nào Lao, cũng là tông phái Hùng Vương) nghe tin bèn mấy lần đem quân sang đánh để giành ngôi nhưng mà đều thua binh hùng tướng mạnh của nước Văn Lang.

Sau ấy, vua Hùng thứ 18 đâm ra chủ quan, bỏ bê thống trị, chỉ lo hưởng lạc, rốt cục thua quân Thục, gọi con rể tới cứu viện. Tản Viên dẫn binh mã tới, không những thế lại khuyên vua rằng: “Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã dài lâu. Lòng trời ắt có hạn, làm cho Thục vương thừa cơ khởi hấn. Vả lại Thục vương cũng là dòng phái của tiên hoàng đế. Nay quốc thế ko được phổ biến, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì 1 cõi đất phương nam nhưng mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại chúa thượng và thần đã có phép thần tiên, ko gì hơn là trở lại chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu diêu ở làng quê bất lão…”

Tuyền vương cho là phải, bèn nhường ngôi cho người cháu là Thục Vương, trở về núi Nghĩa Lĩnh cộng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất tử. Vua Thục nhớ ơn, cho dựng Dao Đài trên núi Nghĩa Lĩnh để non sông phụng thờ.

Về sau, vua Thục mất nước vào tay Triệu Đà, cơ đồ họ Hùng mới hoàn toàn sụp đổ.

Về chuyện vua Hùng rốt cục mất ngôi, Đại Việt sử ký toàn thư kể: Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mykị Nương, dung nhan dễ nhìn. Thục Vương nghe tiếng, tới cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng mà Hùng hầu can rằng: “Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ nhưng mà thôi”. Thục Vương vì chuyện đấy để bụng ân oán giận.

Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: “Đứa con gái này là giống tiên, ai có đủ tài đức mới cho làm rể”. Bấy giờ có 2 người từ ngoài tới, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng 1 người là Sơn Tinh, 1 người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo tới xin lĩnh mệnh. Vua nói: “Ta có 1 người con gái, chẳng lẽ lại được cả 2 rể hiền?”. Bèn hứa tới ngày hôm sau, người nào đem đủ sính nghi tới trước thì gả cho người đấy. 2 người vâng lời, bái tạ ra về.

Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng tới dâng. Vua y hứa gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính nghi tới sau, giận tiếc là ko kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn trề, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn đứng. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông to nhưng mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa nước để mưu đột kích. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cục Thủy Tinh chẳng thể xâm phạm được núi Tản Viên.

Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương giận dữ, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang nhưng mà chiếm lấy nước. Tới đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.

Video về Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng

https://www.youtube.com/watch?v=YELJJ0unYZY

Kết luận

Dù rằng các thông tin về triều đại Hùng Vương ko được tìm thấy trong chính sử nhưng mà chỉ có trong các truyền thuyết dân gian, trong các tài liệu huyền sử, đối với người Việt Nam, các vua Hùng chính là tiên tổ, cũng là đại diện ưu tú của cha Rồng mẹ Tiên, là những vị người hùng gắn với thời dựng nước. Thành ra, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đối với người Việt Nam là 1 trong những ngày lễ to nhất trong năm. Bài viết đã phân phối tới các bạn thông tin về con rể vua Hùng là người nào. Cảm ơn các bạn đã theo dõi!

Đăng bởi: muonmau.vn

Phân mục: Tổng hợp

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là ăn lận!
Nguồn san sẻ: Trường muonmau.vn (thptsoctrang.edu.vn)

Trên đây là nội dung về Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng
được nhiều độc giả tìm đọc ngày nay. Chúc quý bạn đọc thu được nhiều tri thức quý giá qua bài viết này!

Tham khảo bài khác cùng phân mục: Kiến Thức Tổng Hợp

Từ khóa kiếm tìm: Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng

Thông tin khác

+

Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng

Xem thêm  Gen X là gì? Thế hệ X là gì mới nhất

#Con #rể #vua #hùng #là #Kể #tên #những #người #con #rể #của #vua #Hùng

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();

Việt Nam có 18 đời Hùng Vương dựng nước, trong ấy vị vua Hùng thứ 18, triều đại của vua Hùng rốt cục, có 2 người con rể được dân gian ca tụng. Trong bài viết sau đây, xin mời các bạn cùng trường muonmau.vn mày mò Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng.
Nội dung

Related Articles

Trần Thủ Độ là người nào? Sự nghiệp của Trần Thủ Độ

34 phút ago

Uyển Ân là người nào? Tiểu truyện của Uyển Ân

3 giờ ago

Xà sao lãng gì? Ăn nói xà lơ bắt nguồn từ đâu?

4 giờ ago

Chủ ngữ là gì? Phân biệt chủ ngữ và vị ngữ trong Tiếng Việt

6 giờ ago

1 Thông tin về 18 đời Vua Hùng2 Kể tên những người con rể của Vua Hùng3 Video về Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng4 Kết luận
Thông tin về 18 đời Vua Hùng
Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là biệt hiệu các vị thủ lĩnh vô thượng của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua này là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Dân tộc ta là 1 dân tộc người hùng, 1 dân tộc có xuất xứ gắn liền với lịch sử các vị vua Hùng. Bác Hồ đã có câu:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là câu nói đã đi sâu vào tâm thức của mỗi con người Việt Nam, để nhớ ơn công huân phệ to của họ, hãy cùng Mạng Tin Mới trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc qua các thời đại vua Hùng, để hiểu hơn và kiêu hãnh hơn nữa về dân tộc Việt Nam ta.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();

Truyền thuyết kể lại rằng vua Hùng từ khi thời xã hội Văn Lang còn đó. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh vô thượng, được biết tới với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương cùng lúc là người lãnh đạo quân sự, chủ trì các nghi lễ tín ngưỡng. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu ô sin. Cả nước phân thành 15 bộ (đơn vị hành chính to) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công tác của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.
Kinh thành của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang không những thế các sử gia nước ta bị tác động của các sử gia Trung Quốc nên mới chép kinh thành nước Văn Lang là Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
Phương tiện là đồng thau phát triển thành tầm thường và khởi đầu có phương tiện bằng sắt. Có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là tầm thường nhất.
Không những thế còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự cắt cử lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã hiện ra.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho tới hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang còn đó tới năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) kiêm tính. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong “Thế thứ các triều vua Việt Nam” thì 18 vị vua Hùng là:
Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 – 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Húy là Lộc Tục (祿續).
Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 – 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 – 2253 TCN
Hùng Diệp vương (雄曄王): 2252 – 1913 TCN
Hùng Hi vương (雄犧王): 1912 – 1713 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “ngưu” 牛)
Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 – 1632 TCN
Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 – 1432 TCN
Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 – 1332 TCN
Hùng Định vương (雄定王): 1331 – 1252 TCN
Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 – 1162 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “nhật” 日)
Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 – 1055 TCN
Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 – 969 TCN
Hùng Việt vương (雄越王): 968 – 854 TCN
Hùng Anh vương (雄英王): 853 – 755 TCN
Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 – 661 TCN
Hùng Tạo vương (雄造王): 660 – 569 TCN
Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 – 409 TCN
Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 – 258 TCN
Bên cạnh đó hiện nay, qua khảo chứng, các nhà sử học hầu hết cho rằng chuyện 18 đời Hùng vương là ko có thật. Con số 18 chỉ mang tính biểu trưng.
Nếu xét theo thời kì trị vì kéo dài hơn 2000 năm nhưng mà chỉ có 18 đời vua thì đây là những con số rất khó thuyết phục; mặc dầu biên chép tương tự để “nêu rõ quốc thống” nhưng mà các sử gia đều tỏ ý nghi ngại điều này.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ viết: “Người ta không hề là đá vàng, sao lại vạn thọ được như thế? Điều đấy càng chẳng thể hiểu được” (Việt sử tiêu án).
Còn trong cuốn Việt Nam sử lược, nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết: “…Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là thiên hạ cổ xưa nữa thì cũng khó lòng nhưng mà có nhiều người vạn thọ được tương tự”.
Khác với biên chép của sử sách và truyền thuyết dã sử, các nhà nghiên cứu cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ còn đó trong vòng 300 – 400 năm và niên đại xong xuôi là khoảng năm 208 TCN chứ không hề là năm 258 TCN.
Cuốn Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất của nước ta còn giữ được cho đến nay chép rằng: “Tới đời Trang Vương nhà Chu (696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần phác, chân chất, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Ko rõ tác giả Đại Việt sử lược căn cứ vào đâu để viết lên tương tự, nhưng mà đưa ra thời khắc nhưng mà nhà nước Văn Lang tạo nên vào khoảng thế kỷ VII TCN, tương ứng với công đoạn Đông Sơn là thích hợp với những kết quả nghiên cứu ngày nay, và con số 18 vua Hùng thống trị trong vòng 300 – 400 năm được nhiều người chấp thuận hơn, cho dù chẳng thể khẳng định được rằng nước Văn Lang thực thụ có đúng 18 đời vua Hùng.
Kể tên những người con rể của Vua Hùng
Dù rằng theo sử thi có đến 18 đời vua Hùng, nhưng mà mãi cho tới Vua Hùng thứ 18, vị Vua Hùng rốt cục mới có sử lược ghi về những người con rể của vua Hùng.
Theo ấy, Vua Hùng thứ 18 có 2 người con rể được liệt vào danh sách Tứ Bất Tử nhưng mà người Việt Nam tôn thờ, gồm: Sơn Tinh chồng công chúa Ngọc Hoa và Chử Đồng Tử chồng công chúa Tiên Dung.
Con gái tuyệt sắc, con rể xuất chúng
Ngọc phả kể rằng, tới đời Tuyền Vương, lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã tới hồi xong xuôi nên vua ko sinh được đàn ông. Vua và triều thần đi thăm các cung tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, cho dựng các điện miếu, cầu phúc cầu con, sau mộng mị thấy điềm rắn to, sinh được 2 con gái đều dễ nhìn trinh hiền, phong tư trác việt, chị là Mỵ Châu Tiên Dung, nàng em là Mỵ Nương Ngọc Hoa.
Mỵ Nương Ngọc Hoa to lên, thân phụ muốn tìm kẻ hào kiệt người hùng nên truyền hịch cho thiên tài khắp 4 phương tới kinh đua tài, người nào trúng tuyển sẽ làm rể vua. Anh hào kéo tới đông như mây họp, nhưng mà tài năng được mặt này lại mất mặt kia, vua Hùng chưa ưng người nào.
Quá hạn dự thi, có 2 người bạn đồng học có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa tìm tới, ấy là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh. Họ tâu: “Bọn thần thẹn nỗi kém tài, trộm nghe chúa thượng mở khoa thi kén rể hiền, tuy tới muộn nhưng mà vẫn muốn được thi tài”.

Cảnh thi tài giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.

Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe tới sông Bạch Hạc cho 2 người trổ tài. Sơn Tinh tới ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong phút giây bỗng thấy mưa mây nổi lên, đáy nước vang tiếng động ầm ầm, giao long, kình ngạc, rùa, cá từng đoàn theo sóng cuồn cuộn tung lên, khiến người nào cũng rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, mồm niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu, nơi đấy hiện lên muôn ngàn kỳ quái, biến hóa khôn lường ngăn nước lũ.
Vua Hùng thấy 2 người tài phép ngang nhau, ko biết chọn gả công chúa cho người nào, liền giao hứa: “Người nào đem sính nghi tới trước thì trẫm gả cho người đấy”. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hứa nhau: “Bọn ta cùng trở về soạn sửa sính nghi, để xem người nào là người tới trước?”.
Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, tìm chọn lễ phẩm cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính nghi. Khấn xong liền thấy voi trắng 9 ngà cùng các đồ châu ngọc quý lạ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho sắp xếp, vừa đúng giờ Tý (nửa đêm) đã đưa tới trước lầu rồng. Hùng Tuyền Vương bèn gọi công chúa tới báo gả cho Sơn Tinh. Đến nay Mão, Thuỷ Tinh mới tới, ko cưới được công chúa nên từ ấy kết thù, hằng năm dâng lũ, nhưng mà đều bị Sơn Tinh dùng phép thuật ngăn lại, giữ yên trăm họ và mùa màng.
Còn Mỵ Châu Tiên Dung, Ngọc phả Hùng Vương cho biết nàng được gả cho Chử Đồng Tử (người xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam). Nhiều truyện dân gian khác kể cụ thể hơn về mối nhân duyên này: Chử là chàng ngư phủ mồ côi nghèo tới nỗi cái khố độc nhất đã dùng để tẩm liệm cho cha, ngày ngày dầm mình trong nước kiếm cá để bán lấy tiền sinh nhai. 1 hôm công chúa Tiên Dung đi thuyền qua, thấy bãi cát đẹp nên lệnh cho thị nữ quây màn để tắm, ko ngờ chọn đúng nơi Chử Đồng Tử vùi mình để trốn. Nước làm trôi cát, Tiên Dung bàng hoàng thấy hiện lên 1 chàng trai tuấn tú cũng khỏa thân như mình, cho là duyên trời bèn kết làm chồng vợ.
Để tránh cơn giận của vua cha, Tiên Dung cùng chồng ko về cùng nhưng mà ở ngoài giao thương, hình thành 1 vùng sầm uất. Chử Đồng Tử trong 1 lần theo thuyền buôn ra biển, lên 1 hòn đảo gặp được tiên ông bèn ở lại học đạo, mấy năm sau trở về truyền dạy cho vợ. 2 vợ chồng để lại gia bản cho mọi người, cùng nhau vân du, tiếp diễn học đạo thành tiên.
Cả 2 người con rể của Hùng Vương thứ 18 – Sơn Tinh và Chử Đồng Tử, đều là vị thánh được tôn kính hàng đầu trong tôn giáo cổ kính của người Việt. Họ là 2 trong 4 vị thánh bất diệt nhưng mà dân gian gọi là Tứ bất diệt, cộng với Thánh Gióng và Mẫu Liễu Hạnh. Sơn Tinh chính là Tản Viên Sơn Thánh, tức Đức Thánh Tản, là biểu trưng của nguyện vọng đoạt được thiên nhiên, thắng lợi thiên tai. Đền thờ ông có ở khắp nơi, trong ấy được biết tới nhiều nhất là đền Và ở Sơn Tây, Hà Nội và các ngôi đền trên núi 3 Vì.
Còn Chử Đồng Tử được gọi là Chử Đạo Tổ, người đi đi đầu trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác, là đối tượng biểu trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự khá giả, giàu sang.
Nhường ngôi
Biết cơ đồ họ Hùng đã hết, Hùng Tuyền Vương muốn truyền ngôi cho con rể là Tản Viên Sơn Tinh. Theo Ngọc phả Hùng Vương, khi mà Sơn Tinh chưa quyết, Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Người nào Lao, cũng là tông phái Hùng Vương) nghe tin bèn mấy lần đem quân sang đánh để giành ngôi nhưng mà đều thua binh hùng tướng mạnh của nước Văn Lang.
Sau ấy, vua Hùng thứ 18 đâm ra chủ quan, bỏ bê thống trị, chỉ lo hưởng lạc, rốt cục thua quân Thục, gọi con rể tới cứu viện. Tản Viên dẫn binh mã tới, không những thế lại khuyên vua rằng: “Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã dài lâu. Lòng trời ắt có hạn, làm cho Thục vương thừa cơ khởi hấn. Vả lại Thục vương cũng là dòng phái của tiên hoàng đế. Nay quốc thế ko được phổ biến, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì 1 cõi đất phương nam nhưng mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại chúa thượng và thần đã có phép thần tiên, ko gì hơn là trở lại chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu diêu ở làng quê bất lão…”
Tuyền vương cho là phải, bèn nhường ngôi cho người cháu là Thục Vương, trở về núi Nghĩa Lĩnh cộng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất tử. Vua Thục nhớ ơn, cho dựng Dao Đài trên núi Nghĩa Lĩnh để non sông phụng thờ.
Về sau, vua Thục mất nước vào tay Triệu Đà, cơ đồ họ Hùng mới hoàn toàn sụp đổ.
Về chuyện vua Hùng rốt cục mất ngôi, Đại Việt sử ký toàn thư kể: Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mykị Nương, dung nhan dễ nhìn. Thục Vương nghe tiếng, tới cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng mà Hùng hầu can rằng: “Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ nhưng mà thôi”. Thục Vương vì chuyện đấy để bụng ân oán giận.
Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: “Đứa con gái này là giống tiên, ai có đủ tài đức mới cho làm rể”. Bấy giờ có 2 người từ ngoài tới, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng 1 người là Sơn Tinh, 1 người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo tới xin lĩnh mệnh. Vua nói: “Ta có 1 người con gái, chẳng lẽ lại được cả 2 rể hiền?”. Bèn hứa tới ngày hôm sau, người nào đem đủ sính nghi tới trước thì gả cho người đấy. 2 người vâng lời, bái tạ ra về.
Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng tới dâng. Vua y hứa gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính nghi tới sau, giận tiếc là ko kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn trề, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn đứng. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông to nhưng mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa nước để mưu đột kích. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cục Thủy Tinh chẳng thể xâm phạm được núi Tản Viên.
Mỵ Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương giận dữ, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang nhưng mà chiếm lấy nước. Tới đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.
Video về Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng

Xem thêm  Quyết định gia hạn thời gian xác minh khiếu nại hay nhất

Kết luận
Dù rằng các thông tin về triều đại Hùng Vương ko được tìm thấy trong chính sử nhưng mà chỉ có trong các truyền thuyết dân gian, trong các tài liệu huyền sử, đối với người Việt Nam, các vua Hùng chính là tiên tổ, cũng là đại diện ưu tú của cha Rồng mẹ Tiên, là những vị người hùng gắn với thời dựng nước. Thành ra, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đối với người Việt Nam là 1 trong những ngày lễ to nhất trong năm. Bài viết đã phân phối tới các bạn thông tin về con rể vua Hùng là người nào. Cảm ơn các bạn đã theo dõi!
Đăng bởi: muonmau.vn
Phân mục: Tổng hợp

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là ăn lận!
Nguồn san sẻ: Trường muonmau.vn (thptsoctrang.edu.vn)

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push();

Bạn vừa xem nội dung Con rể vua hùng là người nào? Kể tên những người con rể của vua Hùng
. Chúc bạn vui vẻ

You may also like

Giai thoại về cuộc đời “số nhọ” của chàng ngư dân Ramon Artagaveytia

Vụ chìm tàu Titanic là một trong những