Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử hay nhất

Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử hay nhất

- in Khoa Học Tâm Linh
257

Hãy cùng Muôn Màu theo dõi nội dung hay nhất về Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử dưới đây nhé:

Mục lục

Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử


Đạo đức kinh có thể là 1 quyển sách còn lạ lẫm đối với nhiều người, nhưng mà với những người theo đạo thì đây là cuốn sách răn dạy cực kì thân thuộc và đầy tính nhân bản. 2 ngàn 6 trăm 5 sau lúc nó được sáng tác, chúng ta cần những bài học về nhận thức bản thân của Đạo đức kinh hơn bao giờ hết.

Xuất xứ của Đạo đức kinh

Nhiều sử gia cho rằng, Đạo đức kinh (Tao Te Ching) được viết vào khoảng 5 600 trước Công nguyên bởi 1 người tên là Lão Tử (Lao Tzu), sống ở Trung Quốc.

Đạo đức kinh được dịch là “tuyến đường cương trực”. Trong 81 chương, nó đưa ra 1 luận thuyết về cách sống trong toàn cầu với lòng tốt và sự cương trực: 1 loại trí óc quan trọng trong 1 toàn cầu nhưng nhiều người tin rằng điều ấy là chẳng thể.

Phê chuẩn những thông điệp nhân bản nhưng Đạo đức kinh nhắn gửi, 1 tín ngưỡng đã có mặt trên thị trường và lấy cuốn sách này làm nền móng ấy là Đạo giáo hay Lão giáo. Hẳn nhiên người sáng lập ra tín ngưỡng này chính là người viết Đạo đức kinh, Lão Tử.

Đạo giáo là 1 truyền thống triết học và niềm tin tín ngưỡng cổ kính đã ăn sâu vào phong tục và toàn cầu quan của người Trung Quốc. Đạo giáo thường được dịch là “Tuyến đường cương trực”. Nhưng mà thật khó để nói xác thực điều này có tức là gì. Đạo là nguyên tắc thông minh tối thượng của vũ trụ. Vạn vật thống nhất và kết nối trong Đạo.

Từ những gì Hoa Sen Phật tích lũy được, Đạo giáo là 1 tập trung các niềm tin tâm linh liên can tới cách 1 người nên sống cuộc sống của họ. Nó có vẻ liên can chặt chẽ tới triết học Zen.

Có nhiều nghi ngại rằng Lão Tử là 1 đối tượng thần thoại và Đạo đức kinh có bản lĩnh là 1 biên soạn của nhiều tác giả từ thời khắc thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên.

Trong Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử vì ngao ngán triều đình nên quyết cưỡi trâu tìm nơi ở ẩn. Thế nhưng mà bạn ông tức Doãn Hỷ khi ấy đang làm quan tại cửa ải Hàm Cốc đã có lời rằng: “Nếu ngài quyết định đi ẩn cư xin hãy vì tôi nhưng để lại những hiểu biết của ngài!”. Nghe lời thỉnh cầu, Lão Tử đã ở lại Hàm Cốc quan và viết ra bộ “Đạo đức kinh”. Còn dặn dò rằng Doãn Hỷ cứ theo ấy nhưng tu thì sẽ đắc đạo. Chính vì lẽ này “Đạo đức kinh” còn có 1 tên khác là “Sách của Lão Tử”.

Bất chấp những nghi ngại về tính chính xác, có 1 số giả thuyết về cuộc đời huyền thoại của Lão Tử. Người ta cho rằng Lão Tử là bạn và là đồng môn của nhà triết học lừng danh Trung Quốc, Khổng Tử.

Bạn có thể biết tới Khổng Tử qua những câu nói hay về cuộc sống như: “Cuộc sống thực thụ dễ ợt, nhưng mà chúng ta nhất thiết khiến cho nó trở thành phức tạp”, hoặc “Hãy chọn 1 công tác bạn thích thú và bạn sẽ ko bao giờ phải làm việc 1 ngày nào trong đời”. Nhiều câu chuyện cho rằng Khổng Tử đã kiếm tìm lời khuyên của Lão Tử tính từ lúc còn trẻ và rất ấn tượng với trí óc của vị thầy mập tuổi này.

Nội dung của Đạo đức kinh

Cuốn sách được Lão Tử viết gồm có 81 chương và khoảng trên dưới 5000 chữ Hán. Đạo đức kinh chia làm 2 phần: “Thượng kinh” và “Hạ kinh”. Trong ấy “Thượng kinh” có 37 chương còn “Hạ kinh” có 44 chương.


Thượng kinh bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”. Nội dung trong Thượng kinh chủ đạo là về đạo nên cũng còn được gọi là “Đạo kinh”.

Hạ kinh thì bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức.”. Nếu Thượng kinh luận về đạo thì Hạ kinh luận về chữ Đức nên còn được gọi là “Đức kinh”. Sau đây là 81 chương trong Đạo đức kinh:

Chương 1: Thể Đạo

1. Đạo (nhưng) có thể gọi được, chẳng phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên nhưng có thể gọi được, ko (còn) phải là tên thường (hằng cửu).

2. Ko tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.

3. Do vậy thường ko có dục để trông thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để trông thấy chỗ giới hạn (tính năng) [2] của mình.

4. 2 cái ấy cùng 1 xuất xứ, nhưng mà tên không giống nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm đấy chính là cửa nảy sinh ra mọi điều .

Chương 2: Dưỡng Thân

1. Người đời đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là ko tốt vậy, bởi vì có ko sinh ra nhau dễ khó thành quả lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lẫn lộn ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.

2. Do vậy thánh nhân dùng Vô vi nhưng ứng xử, dùng «vô ngôn» nhưng bảo ban.

3. Vạn vật hoạt động nhưng vẫn im lìm; chân thực nhưng ko (đòi quyền) sở hữu; lao tác nhưng ko cậy công; công thành nhưng ko bịn rịn.

4. Ko bịn rịn nên mới ko mất.

Chương 3: An Dân

1. Ko sùng thượng hiền tài, làm cho dân ko tranh. Ko quí của khó được, làm cho dân ko ăn cướp. Ko khoa trương những gì kích thích lòng thèm muốn, làm cho lòng dân ko loạn.

2. Vì thế phép trị nước của thánh nhân là khiến cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường làm cho dân ko biết, ko ham. Làm cho kẻ trí ko dám làm gì cả.

3. Tuân theo phép Vô vi, thời ko gì là ko trị.

Chương 4: Vô Nguyên

1. Đạo rỗng ko nhưng dùng ko hết.

2. Đạo sâu xa man mác tợ hồ như là tiên tổ vạn vật.

3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rắc rối, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.

4. Trong trẻo thay, tợ hồ trường tồn.

5. Ta ko biết Đạo con người nào; chừng như có trước Thiên đế.

Chương 5: Hư Dụng

1. Trời đất ko có lòng nhân, coi bá tánh như chó rơm.

2. Thánh nhân ko có lòng nhân, coi bá tánh như chó rơm.

3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống ko nhưng ko hao kiệt, càng động, hơi càng ra.

4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.

Chương 6: Thành Tượng

1. Cốc thần bất diệt, ấy là Huyền tẫn.

2. Cửa Huyền tẫn chính là cội rễ trời đất.

3. Triền miên trường tồn, dùng ko bao giờ hết.

Chương 7: Thao Quang

Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ lâu dài chính vì ko sống cho mình, thành ra nên trường thọ.

Vì thế thánh nhân để thân ra sau nhưng thân ở trước; để thân ra ngoài nhưng thân còn.

Phải chăng vì ko riêng tư, nên vẫn thành được cái riêng tư?

Chương 8: Dị Tính

Bậc trọn lành giống như nước.

Nước khéo làm ích cho muôn loài nhưng ko giành giật, ở chỗ mọi người đều ghét, do vậy gần Đạo.

Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời trầm lặng thâm thúy; giao tiếp với người khăng khăng bác ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có bản lĩnh; hoạt động cư xử hợp thời.

Chính vì ko tranh, nên ko người nào chê trách ân oán thán.

Chương 9: Vận Di

1. Giữ nhưng khiến cho đầy mãi, ko bằng ngừng lại.

2. Mài cho nhọn, cho sắc ko giữ được lâu.

3. Vàng ngọc đầy nhà, không thể giữ được.

4. Giàu có nhưng kiêu ngạo, sẽ tự vời tai họa.

5. Thành công, nên danh rồi thời nên lui thân, đấy là đạo Trời.

Chương 10: Năng Vi

Năng vi (Làm được ko?)

1. Có thể đem hồn mai ủ ấp lấy Đạo, ko lìa xa chăng?

2. Có thể giữ cho nguyên khí ko toán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?

3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong trắng ko tì vết chăng?

4. Có thể yêu dân trị nước, nhưng vẫn vô vi chăng?

5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chăng?

6. Có thể minh mẫn nhưng như người vô tri chăng?

7. Sinh dưỡng vạn vật; sống nhưng vẫn như ko có; làm nhưng ko cậy công; làm cho mập nhưng ko đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.

Chương 11: Vô Dụng

1. 3 chục căm, hợp lại 1 bầu. Nhờ chỗ «trống ko», mới có cái dùng của xe.

2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống ko», mới có cái dùng của chén bát.

3. Đục cửa mập, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống ko, mới có cái dùng của nhà.

4. Do vậy lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «ko» để làm cái dụng.

Xem thêm  Lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về tình yêu, chánh niệm và hòa bình Cập nhật

Chương 12: Kiểm Dục

1. 5 màu khiến người mù mắt. 5 giọng khiến người điếc tai. 5 mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của nả khó được, khiến người bị tai hại.

2. Do vậy, thánh nhân vì bụng ko vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.

Chương 13: Yếm Sỉ

1. Vinh, nhục cũng làm lo lắng. Sở dĩ thiến nạn là vì có thân.

2. Vì sao vinh, nhục đều làm lo lắng? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Thành ra nên nói: Vinh nhục đều lo.

3. Vì sao nói: «Thiến nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo lắng nhiều, chính vì ta có thân. Nếu ko có thân, ta đâu có lo !

4. Do vậy người nào quí người đời hơn thân mình, thì có thể đem người đời phó thác cho, người nào yêu người đời hơn thân mình, thì có thể gửi gắm người đời cho họ được.[6]

Chương 14: Tán Huyền

1. Nhìn ko thấy, gọi là Di. Nghe ko thấy, gọi là Hi. Nắm ko được, gọi là Vi. 3 điều đấy chẳng thể suy cứu tới cùng. Do vậy hợp lại làm 1.

2. Trên nó ko sáng. Dưới nó ko mờ. Triền miên dằng dặc nhưng chẳng thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ ko có gì. Đấy là tình trạng của cái ko tình trạng. Hình tượng của cái ko có vật chất. Cái có hốt hoảng, đón trước ko thấy đầu, theo sau ko thấy đuôi.

3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, đấy là nắm được giềng mối đạo.

Chương 15: Hiển Đức

1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, , sâu sắc, hiểu rõ; sâu sắc khôn lường. Vì khó lường nên gượng gạo tả tưởng tượng.

2. Các ngài cẩn trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e sợ sợ hàng xóm 4 bên; cung kính như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chân chất như chưa mài giũa; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục.

3. Người nào có thể đục nhưng nhờ tĩnh lại dần dần trong. Người nào có thể yên nhưng nhờ động lại dần dần linh động.

4. Kẻ giữ đạo ko muốn đầy. Chỉ vì ko muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.

Chương 16: Qui Căn

1. Hư vô cơ cực, cực kỳ yên tĩnh.

2. Vạn vật đua sống, ta nhân ấy xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng điệp đều trở về cội.

3. Trở về gốc rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh nghĩa là trường cửu.

4. Biết «trường cửu» mới là minh mẫn. Ko biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.

5. Biết «trường cửu» sẽ ung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.[9]

Chương 17: Thuần Phong

1. Thánh quân thời cổ kính (thống trị), dân ở dưới ko biết rằng có.

2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì ko đủ tin, nên dân ko tin.

3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công tác hoàn thành, nhưng dân đều bảo rằng: «Thiên nhiên bởi ta.»

Chương 18: Tục Bạc

1. Đại đạo mất mới có nhơn nghĩa,

Trí óc sinh mới có gian trá mập.

2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.

3. Non sông rối loạn mới có trung thần.

Chương 19: Hoàn Thuần

1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.

2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.

3. Dứt khéo, bỏ lợi, ko có ăn cướp.

4. 3 điều ấy hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.

5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh nhanh, chân chất: ít riêng tư, ít thèm muốn.

Chương 20: Dị Tục

1. Dứt học, hết lo. Dạ với ơi không giống nhau bao nhiêu? Lành với dữ không giống nhau mấy tầm?

2. Cái nhưng người sợ, ta há ko sợ, nhưng mà ko tới nỗi hốt hoảng mất ý thức. [28]

3. Thiên hạ hớn hở, như hưởng cỗ bàn, như lên đài xuân.

4. Riêng ta thầm lặng, chẳng chút khoa trương, y như ấu thơ, chưa biết mỉm cười. Dáng bộ bơ phờ, lênh đênh vô định.

5. Chúng nhân có thừa, riêng ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mịt mù tay. Thiên hạ sáng chói, riêng ta mờ mịt. Tĩnh mịch như biển khơi, vi vu như gió thổi. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu xuẩn, thô kệch.

6. Riêng ta sống khác người, vì ko lìa xa «mẹ tự nhiên».

Ý nghĩa của Đạo đức kinh

1. Vô vi

Định nghĩa vô vi được nói đến trong Đạo đức kinh được hiểu như lời khuyên dạy thuận theo thiên nhiên vốn có. Dù đôi lúc nó bị hiểu lầm rằng là ko làm gì cả nhưng mà ấy là hướng nghĩ suy tiêu cực. Định nghĩa trên khuyên con người ta làm mọi việc 1 cách dễ ợt hòa thuận với quy luật của vạn vật.

Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng mà có thể chảy tới bất kỳ nơi nào, và với 1 khối lượng mập thì có thể làm lở cả đất đá. Tương tự vô vi có thể ví von với cách hành xử của nước. Tức là hành động theo thiên nhiên, là làm nhưng ko có tâm riêng, cũng như đói thì phải ăn, khát thì phải uống.

2. Bác ái

Lão Tử đã viết “tri nhân giả trí, tự tri giả minh” với ý dặn dò hiểu được người chỉ là 1 phần còn hiểu được bản thân mình mới là điều nhu yếu thực thụ. Lời khuyên hướng con người ta thay vì chạy đua với kẻ khác thì hãy chạy đua với chính bản thân mình. Giành lấy thắng lợi trước bản thân của ngày bữa qua mới là 1 thắng lợi đúng nghĩa.

Toàn thể cuốn sách nói về việc đạt được điều nhưng Lão Tử gọi là “Kiêm toàn lớn lao”, 1 xã hội thế giới trong ấy chúng ta được quản lý bởi những triết lý đạo đức hướng đến con người, thay vì chủ nghĩa tư bản. Nó mang tính chính trị mơ hồ, điều này có thể gây bất thần cho 1 số người.

Điều tôi thích ở nó là lời kêu gọi hành động chủ đạo quay quanh việc kết nối với nguồn cội của chúng ta trong thiên nhiên và các nhóm tập thể của con người. Nhiều lần, nó quay quay về ý tưởng rằng con người và loài người phần mập là tốt, ấy là 1 ý tưởng cực kỳ nhẹ nhõm trong 1 toàn cầu bão hòa với nhiều điều bị động bao quanh.

Lão Tử đưa ra đánh giá rằng theo thời kì, xã hội sẽ nhìn thấy những bất công và gian ác chỉ là 1 phần thực chất của chúng ta, điều này lý giải vì sao chúng ta phải cạnh tranh ác liệt để giành lấy khoáng sản. Thay vào ấy, ông lập luận rằng thực chất con người về căn bản là tốt, và lòng tốt sinh ra lòng tốt. Đáng chú tâm, nó cũng đi vào 1 số chủ đề thú vị về thực chất của thực tại, bản ngã và sự phân mảnh của xã hội.

Trong 81 chương của Đạo đức kinh, Lão Tử vẽ ra được những quy luật vận hành của ko gian thời kì, của xã hội và con người. Trích trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết:

Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhì, Nhì sinh tam, Tam sinh vạn vật.

Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, xung khí dĩ vi hòa.

Có thể tạm hiểu là mọi vật trên đời đều dựa vào nhau nhưng sinh ra hay mất đi, theo 1 quy luật của tạo hóa định sẵn và con người nên chấp thuận nó như 1 lẻ thường. Để rồi từ ấy chọn cho mình cách sống và nghĩ suy thích hợp. Những câu này còn khớp với thuyết “Big Bang” về xuất xứ và mấu chốt của vũ trụ. Trong sách của mình Lão Tử còn khuyên răn các lĩnh vực khác như quản trị con người và cuộc sống, kinh doanh sản xuất và cả những vấn đề về tôi rèn con người thí dụ như:

Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu.

Ý khuyên con người nên sống như nước, đừng giành giật chuộc lợi, tất cả những gì chúng ta làm đều sẽ gặt lại thành tựu xứng đáng với những gì mình bỏ ra. Những tâm ý này được Lão Tử nhắc nhiều hơn, mong con người ta có thể hiểu và học theo, biến thành những người tốt đẹp cho xã hội.

Với 81 câu thơ ngắn, Đạo đức kinh là 1 cuốn sách xuất sắc để khởi đầu hoặc chấm dứt 1 ngày của bạn với 1 sự suy ngẫm. Mong rằng những thông tin nhưng Hoa Sen Phật san sẻ có thể giúp bạn hiểu thêm về “Đạo đức kinh” cũng như trị giá bên trong của nó. Từ ấy nhìn nhận và đoàn luyện bản thân để sống 1 cuộc sống đạo đức.

Hoa Sen Phật

Trên đây là nội dung về Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử được nhiều độc giả ân cần ngày nay. Chúc quý bạn đọc thu được nhiều tri thức quý giá qua bài viết này!

Tham khảo bài khác cùng phân mục: https://muonmau.vn/huyen-bi-tam-linh/khoa-hoc-tam-linh

Từ khóa kiếm tìm: Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử

Thông tin khác

+

Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử

#nghĩa #Đạo #đức #kinh #của #Lão #Tử

Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử
by
Hoa Sen Phật
10/09/2021
in
Tâm Linh 0
Đạo đức kinh có thể là 1 quyển sách còn lạ lẫm đối với nhiều người, nhưng mà với những người theo đạo thì đây là cuốn sách răn dạy cực kì thân thuộc và đầy tính nhân bản. 2 ngàn 6 trăm 5 sau lúc nó được sáng tác, chúng ta cần những bài học về nhận thức bản thân của Đạo đức kinh hơn bao giờ hết.Nội dung bài viết
Xuất xứ của Đạo đức kinhNội dung của Đạo đức kinhÝ nghĩa của Đạo đức kinh1. Vô vi2. Nhân áiNguồn gốc của Đạo đức kinhNhiều sử gia cho rằng, Đạo đức kinh (Tao Te Ching) được viết vào khoảng 5 600 trước Công nguyên bởi 1 người tên là Lão Tử (Lao Tzu), sống ở Trung Quốc.Đạo đức kinh được dịch là “tuyến đường cương trực”. Trong 81 chương, nó đưa ra 1 luận thuyết về cách sống trong toàn cầu với lòng tốt và sự cương trực: 1 loại trí óc quan trọng trong 1 toàn cầu nhưng nhiều người tin rằng điều ấy là chẳng thể.Phê chuẩn những thông điệp nhân bản nhưng Đạo đức kinh nhắn gửi, 1 tín ngưỡng đã có mặt trên thị trường và lấy cuốn sách này làm nền móng ấy là Đạo giáo hay Lão giáo. Hẳn nhiên người sáng lập ra tín ngưỡng này chính là người viết Đạo đức kinh, Lão Tử.Đạo giáo là 1 truyền thống triết học và niềm tin tín ngưỡng cổ kính đã ăn sâu vào phong tục và toàn cầu quan của người Trung Quốc. Đạo giáo thường được dịch là “Tuyến đường cương trực”. Nhưng mà thật khó để nói xác thực điều này có tức là gì. Đạo là nguyên tắc thông minh tối thượng của vũ trụ. Vạn vật thống nhất và kết nối trong Đạo.Từ những gì Hoa Sen Phật tích lũy được, Đạo giáo là 1 tập trung các niềm tin tâm linh liên can tới cách 1 người nên sống cuộc sống của họ. Nó có vẻ liên can chặt chẽ tới triết học Zen.Có nhiều nghi ngại rằng Lão Tử là 1 đối tượng thần thoại và Đạo đức kinh có bản lĩnh là 1 biên soạn của nhiều tác giả từ thời khắc thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên.Trong Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử vì ngao ngán triều đình nên quyết cưỡi trâu tìm nơi ở ẩn. Thế nhưng mà bạn ông tức Doãn Hỷ khi ấy đang làm quan tại cửa ải Hàm Cốc đã có lời rằng: “Nếu ngài quyết định đi ẩn cư xin hãy vì tôi nhưng để lại những hiểu biết của ngài!”. Nghe lời thỉnh cầu, Lão Tử đã ở lại Hàm Cốc quan và viết ra bộ “Đạo đức kinh”. Còn dặn dò rằng Doãn Hỷ cứ theo ấy nhưng tu thì sẽ đắc đạo. Chính vì lẽ này “Đạo đức kinh” còn có 1 tên khác là “Sách của Lão Tử”.Bất chấp những nghi ngại về tính chính xác, có 1 số giả thuyết về cuộc đời huyền thoại của Lão Tử. Người ta cho rằng Lão Tử là bạn và là đồng môn của nhà triết học lừng danh Trung Quốc, Khổng Tử.Bạn có thể biết tới Khổng Tử qua những câu nói hay về cuộc sống như: “Cuộc sống thực thụ dễ ợt, nhưng mà chúng ta nhất thiết khiến cho nó trở thành phức tạp”, hoặc “Hãy chọn 1 công tác bạn thích thú và bạn sẽ ko bao giờ phải làm việc 1 ngày nào trong đời”. Nhiều câu chuyện cho rằng Khổng Tử đã kiếm tìm lời khuyên của Lão Tử tính từ lúc còn trẻ và rất ấn tượng với trí óc của vị thầy mập tuổi này.Nội dung của Đạo đức kinhCuốn sách được Lão Tử viết gồm có 81 chương và khoảng trên dưới 5000 chữ Hán. Đạo đức kinh chia làm 2 phần: “Thượng kinh” và “Hạ kinh”. Trong ấy “Thượng kinh” có 37 chương còn “Hạ kinh” có 44 chương.
Thượng kinh bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”. Nội dung trong Thượng kinh chủ đạo là về đạo nên cũng còn được gọi là “Đạo kinh”.Hạ kinh thì bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức.”. Nếu Thượng kinh luận về đạo thì Hạ kinh luận về chữ Đức nên còn được gọi là “Đức kinh”. Sau đây là 81 chương trong Đạo đức kinh:Chương 1: Thể Đạo1. Đạo (nhưng) có thể gọi được, chẳng phải là Đạo thường (hằng cửu). Tên nhưng có thể gọi được, ko (còn) phải là tên thường (hằng cửu).2. Ko tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của muôn vật.3. Do vậy thường ko có dục để trông thấy chỗ vi diệu của mình. Thường có dục, để trông thấy chỗ giới hạn (tính năng) [2] của mình.4. 2 cái ấy cùng 1 xuất xứ, nhưng mà tên không giống nhau, đều gọi là Huyền nhiệm. (Cái) tối ư huyền nhiệm đấy chính là cửa nảy sinh ra mọi điều .Chương 2: Dưỡng Thân1. Người đời đều biết đẹp là đẹp, thế là xấu vậy; đều biết tốt là tốt thế là ko tốt vậy, bởi vì có ko sinh ra nhau dễ khó thành quả lẫn nhau, ngắn dài tạo thành lẫn nhau, trên dưới lẫn lộn ra nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước theo nhau.2. Do vậy thánh nhân dùng Vô vi nhưng ứng xử, dùng «vô ngôn» nhưng bảo ban.3. Vạn vật hoạt động nhưng vẫn im lìm; chân thực nhưng ko (đòi quyền) sở hữu; lao tác nhưng ko cậy công; công thành nhưng ko bịn rịn.4. Ko bịn rịn nên mới ko mất.Chương 3: An Dân1. Ko sùng thượng hiền tài, làm cho dân ko tranh. Ko quí của khó được, làm cho dân ko ăn cướp. Ko khoa trương những gì kích thích lòng thèm muốn, làm cho lòng dân ko loạn.2. Vì thế phép trị nước của thánh nhân là khiến cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường làm cho dân ko biết, ko ham. Làm cho kẻ trí ko dám làm gì cả.3. Tuân theo phép Vô vi, thời ko gì là ko trị.Chương 4: Vô Nguyên1. Đạo rỗng ko nhưng dùng ko hết.2. Đạo sâu xa man mác tợ hồ như là tiên tổ vạn vật.3. Làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rắc rối, pha trộn ánh sáng, hòa mình cùng bụi rậm.4. Trong trẻo thay, tợ hồ trường tồn.5. Ta ko biết Đạo con người nào; chừng như có trước Thiên đế.Chương 5: Hư Dụng1. Trời đất ko có lòng nhân, coi bá tánh như chó rơm.2. Thánh nhân ko có lòng nhân, coi bá tánh như chó rơm.3. Khoảng trời đất giống như ống bễ. Trống ko nhưng ko hao kiệt, càng động, hơi càng ra.4. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung.Chương 6: Thành Tượng1. Cốc thần bất diệt, ấy là Huyền tẫn.2. Cửa Huyền tẫn chính là cội rễ trời đất.3. Triền miên trường tồn, dùng ko bao giờ hết.Chương 7: Thao QuangTrời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ lâu dài chính vì ko sống cho mình, thành ra nên trường thọ.Vì thế thánh nhân để thân ra sau nhưng thân ở trước; để thân ra ngoài nhưng thân còn.Phải chăng vì ko riêng tư, nên vẫn thành được cái riêng tư?Chương 8: Dị TínhBậc trọn lành giống như nước.Nước khéo làm ích cho muôn loài nhưng ko giành giật, ở chỗ mọi người đều ghét, do vậy gần Đạo.Ở thì lựa nơi chốn; tâm hồn thời trầm lặng thâm thúy; giao tiếp với người khăng khăng bác ái; nói năng thành tín; lâm chính thời trị bình; làm việc thời có bản lĩnh; hoạt động cư xử hợp thời.Chính vì ko tranh, nên ko người nào chê trách ân oán thán.Chương 9: Vận Di1. Giữ nhưng khiến cho đầy mãi, ko bằng ngừng lại.2. Mài cho nhọn, cho sắc ko giữ được lâu.3. Vàng ngọc đầy nhà, không thể giữ được.4. Giàu có nhưng kiêu ngạo, sẽ tự vời tai họa.5. Thành công, nên danh rồi thời nên lui thân, đấy là đạo Trời.Chương 10: Năng ViNăng vi (Làm được ko?)1. Có thể đem hồn mai ủ ấp lấy Đạo, ko lìa xa chăng?2. Có thể giữ cho nguyên khí ko toán loạn, giữ vẹn thiên chân, hoàn toàn theo được đạo Trời, (định luật trời đất) như anh nhi chăng?3. Có thể tẩy trừ được (trần cấu), giữ được cho gương lòng trong trắng ko tì vết chăng?4. Có thể yêu dân trị nước, nhưng vẫn vô vi chăng?5. Cơ trời mở đóng, có thể thuận ứng như con mái chăng?6. Có thể minh mẫn nhưng như người vô tri chăng?7. Sinh dưỡng vạn vật; sống nhưng vẫn như ko có; làm nhưng ko cậy công; làm cho mập nhưng ko đòi làm chủ, thế là đức sâu xa vậy.Chương 11: Vô Dụng1. 3 chục căm, hợp lại 1 bầu. Nhờ chỗ «trống ko», mới có cái dùng của xe.2. Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ «trống ko», mới có cái dùng của chén bát.3. Đục cửa mập, cửa sổ để làm nhà; nhờ có chỗ trống ko, mới có cái dùng của nhà.4. Do vậy lấy cái «có» để làm cái lợi, lấy cái «ko» để làm cái dụng.Chương 12: Kiểm Dục1. 5 màu khiến người mù mắt. 5 giọng khiến người điếc tai. 5 mùi khiến người tê lưỡi. Ruổi rong săn bắn, khiến lòng người hóa cuồng. Của nả khó được, khiến người bị tai hại.2. Do vậy, thánh nhân vì bụng ko vì mắt. Nên bỏ cái kia, lấy cái này.Chương 13: Yếm Sỉ1. Vinh, nhục cũng làm lo lắng. Sở dĩ thiến nạn là vì có thân.2. Vì sao vinh, nhục đều làm lo lắng? Vinh là ở ngôi cao, nhục là ở địa vị thấp. Được cũng lo, mất cũng lo. Thành ra nên nói: Vinh nhục đều lo.3. Vì sao nói: «Thiến nạn là vì có thân?» Ta sở dĩ phải lo lắng nhiều, chính vì ta có thân. Nếu ko có thân, ta đâu có lo !4. Do vậy người nào quí người đời hơn thân mình, thì có thể đem người đời phó thác cho, người nào yêu người đời hơn thân mình, thì có thể gửi gắm người đời cho họ được.[6]Chương 14: Tán Huyền1. Nhìn ko thấy, gọi là Di. Nghe ko thấy, gọi là Hi. Nắm ko được, gọi là Vi. 3 điều đấy chẳng thể suy cứu tới cùng. Do vậy hợp lại làm 1.2. Trên nó ko sáng. Dưới nó ko mờ. Triền miên dằng dặc nhưng chẳng thể đặt tên. Rồi lại trở về chỗ ko có gì. Đấy là tình trạng của cái ko tình trạng. Hình tượng của cái ko có vật chất. Cái có hốt hoảng, đón trước ko thấy đầu, theo sau ko thấy đuôi.3. Giữ cái Đạo xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, đấy là nắm được giềng mối đạo.Chương 15: Hiển Đức1. Bậc hoàn thiện xưa siêu vi, , sâu sắc, hiểu rõ; sâu sắc khôn lường. Vì khó lường nên gượng gạo tả tưởng tượng.2. Các ngài cẩn trọng như mùa đông đi qua sông; các ngài e sợ sợ hàng xóm 4 bên; cung kính như khách; lạnh lùng như băng tan; mộc mạc chân chất như chưa mài giũa; man mác như hang núi; hỗn mang như nước đục.3. Người nào có thể đục nhưng nhờ tĩnh lại dần dần trong. Người nào có thể yên nhưng nhờ động lại dần dần linh động.4. Kẻ giữ đạo ko muốn đầy. Chỉ vì ko muốn đầy, nên mới che dấu và chẳng đổi mới.Chương 16: Qui Căn1. Hư vô cơ cực, cực kỳ yên tĩnh.2. Vạn vật đua sống, ta nhân ấy xem chúng trở về (nguồn). Vạn vật trùng điệp đều trở về cội.3. Trở về gốc rễ là tĩnh; tĩnh là phục mệnh; phục mệnh nghĩa là trường cửu.4. Biết «trường cửu» mới là minh mẫn. Ko biết trường cửu sẽ làm càn và gây hung họa.5. Biết «trường cửu» sẽ ung dung như công hầu vương tước, sẽ hợp với Trời với Đạo. Hợp Đạo rồi sẽ cửu trường: thân có mất đi, cũng chẳng nguy hại gì.[9]Chương 17: Thuần Phong1. Thánh quân thời cổ kính (thống trị), dân ở dưới ko biết rằng có.2. Bậc dưới, họ thân và ngợi khen. Bậc dưới nữa họ sợ. Bậc dưới nữa, họ khinh. Vì ko đủ tin, nên dân ko tin.3. Bậc thánh xưa quí lời nói. Công tác hoàn thành, nhưng dân đều bảo rằng: «Thiên nhiên bởi ta.»Chương 18: Tục Bạc1. Đại đạo mất mới có nhơn nghĩa,Trí óc sinh mới có gian trá mập.2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.3. Non sông rối loạn mới có trung thần.Chương 19: Hoàn Thuần1. Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.2. Dứt thân bỏ nghĩa dân lại thảo lành.3. Dứt khéo, bỏ lợi, ko có ăn cướp.4. 3 điều ấy hào nhoáng bên ngoài, chẳng đủ vào đâu.5. Phải chú trọng điều này: Giữ vẹn tinh nhanh, chân chất: ít riêng tư, ít thèm muốn.Chương 20: Dị Tục1. Dứt học, hết lo. Dạ với ơi không giống nhau bao nhiêu? Lành với dữ không giống nhau mấy tầm?2. Cái nhưng người sợ, ta há ko sợ, nhưng mà ko tới nỗi hốt hoảng mất ý thức. [28]3. Thiên hạ hớn hở, như hưởng cỗ bàn, như lên đài xuân.4. Riêng ta thầm lặng, chẳng chút khoa trương, y như ấu thơ, chưa biết mỉm cười. Dáng bộ bơ phờ, lênh đênh vô định.5. Chúng nhân có thừa, riêng ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mịt mù tay. Thiên hạ sáng chói, riêng ta mờ mịt. Tĩnh mịch như biển khơi, vi vu như gió thổi. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngu xuẩn, thô kệch.6. Riêng ta sống khác người, vì ko lìa xa «mẹ tự nhiên».Ý nghĩa của Đạo đức kinh1. Vô viKhái niệm vô vi được nói đến trong Đạo đức kinh được hiểu như lời khuyên dạy thuận theo thiên nhiên vốn có. Dù đôi lúc nó bị hiểu lầm rằng là ko làm gì cả nhưng mà ấy là hướng nghĩ suy tiêu cực. Định nghĩa trên khuyên con người ta làm mọi việc 1 cách dễ ợt hòa thuận với quy luật của vạn vật.Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng mà có thể chảy tới bất kỳ nơi nào, và với 1 khối lượng mập thì có thể làm lở cả đất đá. Tương tự vô vi có thể ví von với cách hành xử của nước. Tức là hành động theo thiên nhiên, là làm nhưng ko có tâm riêng, cũng như đói thì phải ăn, khát thì phải uống.2. Nhân áiLão Tử đã viết “tri nhân giả trí, tự tri giả minh” với ý dặn dò hiểu được người chỉ là 1 phần còn hiểu được bản thân mình mới là điều nhu yếu thực thụ. Lời khuyên hướng con người ta thay vì chạy đua với kẻ khác thì hãy chạy đua với chính bản thân mình. Giành lấy thắng lợi trước bản thân của ngày bữa qua mới là 1 thắng lợi đúng nghĩa.Toàn thể cuốn sách nói về việc đạt được điều nhưng Lão Tử gọi là “Kiêm toàn lớn lao”, 1 xã hội thế giới trong ấy chúng ta được quản lý bởi những triết lý đạo đức hướng đến con người, thay vì chủ nghĩa tư bản. Nó mang tính chính trị mơ hồ, điều này có thể gây bất thần cho 1 số người.Điều tôi thích ở nó là lời kêu gọi hành động chủ đạo quay quanh việc kết nối với nguồn cội của chúng ta trong thiên nhiên và các nhóm tập thể của con người. Nhiều lần, nó quay quay về ý tưởng rằng con người và loài người phần mập là tốt, ấy là 1 ý tưởng cực kỳ nhẹ nhõm trong 1 toàn cầu bão hòa với nhiều điều bị động bao quanh.Lão Tử đưa ra đánh giá rằng theo thời kì, xã hội sẽ nhìn thấy những bất công và gian ác chỉ là 1 phần thực chất của chúng ta, điều này lý giải vì sao chúng ta phải cạnh tranh ác liệt để giành lấy khoáng sản. Thay vào ấy, ông lập luận rằng thực chất con người về căn bản là tốt, và lòng tốt sinh ra lòng tốt. Đáng chú tâm, nó cũng đi vào 1 số chủ đề thú vị về thực chất của thực tại, bản ngã và sự phân mảnh của xã hội.Trong 81 chương của Đạo đức kinh, Lão Tử vẽ ra được những quy luật vận hành của ko gian thời kì, của xã hội và con người. Trích trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết:Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhì, Nhì sinh tam, Tam sinh vạn vật.Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, xung khí dĩ vi hòa.Có thể tạm hiểu là mọi vật trên đời đều dựa vào nhau nhưng sinh ra hay mất đi, theo 1 quy luật của tạo hóa định sẵn và con người nên chấp thuận nó như 1 lẻ thường. Để rồi từ ấy chọn cho mình cách sống và nghĩ suy thích hợp. Những câu này còn khớp với thuyết “Big Bang” về xuất xứ và mấu chốt của vũ trụ. Trong sách của mình Lão Tử còn khuyên răn các lĩnh vực khác như quản trị con người và cuộc sống, kinh doanh sản xuất và cả những vấn đề về tôi rèn con người thí dụ như:Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư Đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu.Ý khuyên con người nên sống như nước, đừng giành giật chuộc lợi, tất cả những gì chúng ta làm đều sẽ gặt lại thành tựu xứng đáng với những gì mình bỏ ra. Những tâm ý này được Lão Tử nhắc nhiều hơn, mong con người ta có thể hiểu và học theo, biến thành những người tốt đẹp cho xã hội.Với 81 câu thơ ngắn, Đạo đức kinh là 1 cuốn sách xuất sắc để khởi đầu hoặc chấm dứt 1 ngày của bạn với 1 sự suy ngẫm. Mong rằng những thông tin nhưng Hoa Sen Phật san sẻ có thể giúp bạn hiểu thêm về “Đạo đức kinh” cũng như trị giá bên trong của nó. Từ ấy nhìn nhận và đoàn luyện bản thân để sống 1 cuộc sống đạo đức.Hoa Sen PhậtBài liên can sẽ được cập nhật sau! Tags: đạo đức kinh là gìlão tửý nghĩa của đạo đức kinh
ShareTweet

Xem thêm  Lời Mở Đầu, Khoa Học Tâm Linh hay nhất

Bạn vừa xem nội dung Ý nghĩa Đạo đức kinh của Lão Tử. Chúc bạn vui vẻ

You may also like

Cách Khai Mở Con Mắt Thứ Ba Tìm Hiểu Về Trực Giác và Năng Lực Siêu Nhiên

Bạn có biết rằng con người không chỉ